Tham luận của Đoàn Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh

PHÁT TRIỂN KINH TẾ, BẢO ĐẢM AN SINH XÃ HỘI, NÂNG CAO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN, THU HẸP CHÊNH LỆCH VÙNG MIỀN TRONG TỈNH 

21

Đồng chí Nguyễn Xuân Ký, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ninh.

Kính thưa Đoàn Chủ tịch,

Kính thưa Đại hội!

Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh bày tỏ sự nhất trí cao với các văn kiện trình Đại hội và Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương về các văn kiện Đại hội XIII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trình bày trước Đại hội. Thay mặt Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, tôi xin báo cáo góp phần làm rõ thêm về nội dung Phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân, thu hẹp chênh lệch vùng miền trong tỉnh.

Kính thưa Đại hội! 

Kế thừa thành tựu của nhiều thế hệ, trực tiếp là những nhiệm kỳ gần đây và vận dụng các quan điểm của Đại hội XII xem thị trường đóng vai trò chủ yếu trong phân bổ nguồn lực, phát triển hài hòa giữa các vùng miền dựa trên lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh, gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước đi và từng chính sách phát triển, thực hiện ba đột phá chiến lược,… 5 năm qua, Quảng Ninh đã tạo được bứt phá trong phát triển với những kết quả nổi bật không chỉ cảm nhận bằng trực quan quan trọng hơn là có thể chứng thực bằng dữ liệu thống kê:

Thứ nhấtthực hiện các đột phá chiến lược về đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt là phát triển hạ tầng giao thông chiến lược đồng bộ, hiện đại, bảo đảm liên thông tổng thể, thúc đẩy kết nối vùng, liên vùng, nội vùng. Với quan điểm “Giao thông đi trước một bước”, đổi mới phương thức huy động, khơi thông, kết nối nguồn lựclấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư”, tiết kiệm chi thường xuyên, tăng chi đầu tư phát triển gắn với tái cơ cấu đầu tư công hằng năm đều đạt trên 53% tổng chi NSĐP và kiên trì thực hiện có hiệu quả đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP), trung bình cứ 01 đồng ngân sách bỏ ra huy động được 8 - 9 đồng vốn ngoài ngân sách tham gia đầu tư vào Quảng Ninh. Nhờ đó, chỉ tính riêng trong giai đoạn 2016 - 2020 đã huy động được trên 123.000 tỷ đồng vốn đầu tư dành cho phát triển kết cấu hạ tầng, tạo sự bứt phá về hạ tầng giao thông, đô thị, du lịch, dịch vụ,... Hệ thống kết cấu hạ tầng được ưu tiên đẩy nhanh xây dựng, hiện đại hóa đã thúc đẩy liên kết vùng, hợp tác hóa lãnh thổ, tạo nên những hành lang, không gian phát triển mới, được tính toán, cân nhắc với kiến tạo cảnh quan – kiến trúc công trình mang dấu ấn bản sắc địa phương để phục vụ cho phát triển du lịch và tăng cường năng lực đối trọng xuyên biên giới.

Thứ hai, Tập trung tạo đột phá trong cải cách hành chính, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh nằm trong nhóm đứng đầu cả nước nhiều năm liên tục; từ đó tạo chuyển biến căn bản, thúc đẩy có hiệu quả đầu tư theo hình thức đối tác công - tư, thu hút được nguồn lực ngoài ngân sách lớn - nguồn động lực đột phá mạnh mẽ cho đầu tư phát triển của Quảng Ninh những năm qua. Tiếp tục thực hiện sắp xếp lại, tinh gọn bộ máy, giảm bớt các tầng nấc trung gian, bảo đảm hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Đẩy nhanh đô thị hóa với sự định hình chức năng đô thị biển hình thái tổ chức không gian lãnh thổ “một tâm, hai tuyến, đa chiều, hai mũi đột phá” hướng tới xây dựng thành thành phố trực thuộc Trung ương và thúc đẩy liên kết nội vùng, liên kết vùng, phân công và hợp tác lãnh thổ, bảo đảm các tiềm năng, thế mạnh, lợi thế so sánh từng địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ được phát huy tối đa, bổ sung cho nhau mà ở đó Quảng Ninh có một vị trí, vai trò ngày càng quan trọng.

Thứ ba, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và lao động có kỹ năng gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng quy mô và nâng cao chất lượng dân số; gắn chặt với xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.

Thứ tư, gắn kết chặt chẽ giữa phát triển đô thị và nông thôn; giữa phát triển dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp; giữa các mục tiêu tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, đặc biệt tại khu vực biên giới trên bộ, trên biển. Tính gắn kết đó được thể hiện trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, từng bước đi, chính sách của địa phương. 

Điểm nhấn đáng chú ý là, trong khi lấy động lực chính là phát triển dịch vụ, công nghiệp thì tỉnh vẫn rất coi trọng phát huy lợi thế so sánh từng tiểu vùng để phát triển nông nghiệp hàng hóa dựa trên giá trị và tài nguyên bản địa, hình thành lên những sản phẩm riêng có gắn với  “Chương trình mỗi xã, phường một sản phẩm” (gọi tắt là OCOP) bắt đầu từ  Quảng Ninh rồi được nhân rộng ra cả nước. Định hình được mô hình cụ thể, sinh động kết hợp chặt chẽ giữa bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc; vận dụng cơ chế thị trường để chuyển hóa các tài nguyên văn hóa thành nguồn lực văn hóa, “vốn hóa” các giá trị văn hóa địa phương để hình thành nên các sản phẩm văn hóa đa dạng, độc đáo phục vụ du lịch - dịch vụ.

Trên quan điểm, mỗi người dân Quảng Ninh đều được hưởng thành quả tăng trưởng bao trùm, không để ai bị bỏ lại phía sau,  5 năm qua, tỉnh Quảng Ninh đã ban hành 19 chính sách riêng có về an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và ưu tiên bố trí nguồn lực lớn cho các vùng đặc biệt khó khăn, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách, yếu thế, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng miền. Hoàn thành đưa điện lưới quốc gia đến 100% các thôn, bản vùng cao, biên giới và các đảo có dân cư sinh sống. Mở rộng cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục chất lượng cao và nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe Nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Đó cũng chính là việc hướng đến các tiêu chí của “hạnh phúc” mà dự thảo văn kiện Đại hội XIII đã nêu lên, mà cốt lõi là người dân phải được hưởng phúc lợi xã hội, hài hòa giữa đời sống vật chất và đời sống văn hóa tinh thần. 

 Bằng tinh thần đổi mới sáng tạo, khơi thông, giải phóng tối đa các nguồn lực, Quảng Ninh trở thành một trong những cực tăng trưởng kinh tế toàn diện của phía Bắc. Kinh tế liên tục tăng trưởng cao và ổn định. Tốc độ tăng trưởng bình quân 5 năm đạt 10,7%. Chất lượng tăng trưởng được cải thiện đáng kể; quy mô, tiềm lực của nền kinh tế tăng lên rõ rệt; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng bền vững hơn. Diện mạo thành thị và nông thôn thay đổi rõ rệt, nhất là tại các khu vực đặc biệt khó khăn, nông thôn, miền núi, biên giới, biển đảo. GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 6.700 USD, gấp hơn 2 lần bình quân chung cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí đa chiều giảm từ 4,56% năm 2015 xuống chỉ còn 0,36% năm 2020. Chính trị ổn định, xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, văn minh; quốc phòng, an ninh được bảo đảm, chủ quyền biên giới, biển đảo quốc gia được giữ vững, không để xảy ra các tình huống bị động, bất ngờ; xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển.

Năm 2020, dù trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức chưa từng có do đại dịch Covid-19 gây ra, tỉnh Quảng Ninh là địa phương trọng điểm, tuyến đầu đã giữ vững địa bàn “An toàn - Ổn định - Phát triển” – thực hiện thành công “mục tiêu kép” vừa kiểm soát tốt dịch bệnh, vừa ổn định kinh tế - xã hội, nhanh chóng phục hồi sản xuất, kinh doanh, lấy lại đà tăng trưởng, GRDP cả năm đạt 10,05%, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tăng 10% so với dự toán trung ương giao đầu năm, trong đó thu nội địa tăng 7% so với cùng kỳ, thuộc nhóm dẫn đầu cả nước.

Từ thực tiễn Quảng Ninh bước đầu rút ra một số vấn đề mang tính bài học kinh nghiệm:

Một là, trên cơ sở đường lối, chủ trương chung của Trung ương, phải xuất phát từ thực tiễn Quảng Ninh để vận dụng sáng tạo, định hình tư duy phát triển theo phương châm “tầm nhìn toàn cầu, hành động địa phương”. Muốn hoạch định được chủ trương, chiến lược tạo đột phá trong phát triển thì phải bắt đầu từ việc nhận diện đầy đủ các tiềm năng, thế mạnh, giá trị riêng biệt, nổi trội; mà ở đó có cả những yếu tố “thiên tạo” như  vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long, vùng mỏ (than), địa chất, địa mạo; có những yếu tố “nhân tạo” như di sản Yên Tử gắn với Phật phái Trúc Lâm, mạng lưới di tích lịch sử - văn hóa, cảng thị Vân Đồn; có những yếu tố thuộc về cốt cách, con người Quảng Ninh, nhất là truyền thống “kỷ luật và đồng tâm” của Vùng Mỏ anh hùng, cái nội của giai cấp công nhân Việt Nam. Đây chính là những lợi thế so sánh riêng có mà tư duy lãnh đạo phải nhận diện đúng, trúng và có chính sách can thiệp phù hợp để biến tiềm năng thành động năng, cao hơn là chuyển hóa thành nguồn lực và động lực cho phát triển.

Hai là, cần nhận thức, định dạng đầy đủ các các mâu thuẫn, thách thức để tìm cách hóa giải thách thức, biến thách thức thành cơ hội, định hình phương thức phát triển mới. Đó là các mâu thuẫn: giữa nhu cầu giải phóng các nguồn lực, phát huy các tiềm năng thế mạnh và không gian phát triển rộng lớn với sự trói buộc của thể chế cơ chế, chính sách hạn hẹp; giữa khai thác than, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, phát triển công nghiệp nặng xung đột với phát triển du lịch, dịch vụ trên cùng một địa bàn; giữa đổi mới hệ thống chính trị chưa tương xứng phù hợp với đổi mới kinh tế và tình hình thực tiễn đang diễn ra; giữa vừa phát triển kinh tế vừa góp phần bảo đảm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ khu vực biên giới; giữa phát triển bền vững trước những tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, an ninh phi truyền thống; giữa đẩy mạnh công nghiệp hóa, đô thị hóa với phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái; giữa tăng trưởng kinh tế nhanh đi đôi với đảm bảo an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.

Ba là, xác lập tầm nhìn dài hạn trong tính liên thông với các kế hoạch trung hạn, ngắn hạn, gắn với xây dựng quy hoạch đồng bộ để làm cơ sở  thực hiện mục tiêu: Xây dựng, phát triển Quảng Ninh trở thành tỉnh dịch vụ, công nghiệp hiện đại, trung tâm du lịch quốc tế, một trong những cực tăng trưởng của phía Bắc; trở thành khu vực phòng thủ vững chắc về quốc phòng, an ninh và phòng tuyến hợp tác, cạnh tranh kinh tế quốc tế. Phải xem xây dựng Quy hoạch tổng thể và cải cách hành chính là nền tảng phát triển bền vững; là công cụ quản lý của Nhà nước; là phương tiện giám sát của nhân dân; là niềm tin lựa chọn đầu tư của nhà đầu tư và doanh nghiệp. Quy hoạch phải bảo đảm tính đồng bộ, tính thống nhất giữa quy hoạch chung với quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết, phải có định hướng, tầm nhìn chiến lược với sự tham gia của các tư vấn hàng đầu quốc tế; công khai, minh bạch làm căn cứ thực hiện và Nhân dân giám sát, xóa bỏ tư duy nhiệm kỳ. Kiên trì thực hiện tổ chức không gian phát triển “một tâm, hai tuyến đa chiều và hai mũi đột phá”.  Sáp nhập huyện Hoành Bồ vào thành phố Hạ Long (diện khuyến khích) là để tổ chức lại và mở rộng không gian phát triển, tăng cường liên kết, phát huy thế mạnh của từng địa phương trong tỉnh cũng như thế mạnh của Tỉnh trong Vùng đồng bằng sông Hồng và Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.

Bốn là, Cần đặc biệt chú trọng đổi mới cơ chế để khai thông các điểm nghẽn, huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực với phương châm nội lực là căn bản, ngoại lực là quan trọng, kết hợp chặt chẽ nội lực với ngoại lực tạo ra nguồn lực tổng hợp tối ưu; lấy "đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư" nâng cao hiệu quả đầu tư theo hình thức đối tác công- tư và xã hội hoá; ngân sách tập trung cho an sinh xã hội và các công trình có tính chất động lực lan tỏa. Thực tế cho thấy, nguồn lực trong dân rất lớn, phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách mới huy động có hiệu quả để phục vụ cho các chiến lược và chính sách phát triển.

Năm là, phải kiên trì đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi phương thức phát triển từ “nâu” sang “xanh” dựa vào ba trụ cột: thiên nhiên, con người, văn hóa, kết hợp với xu thế hòa bình, hợp tác, hội nhập và cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo hướngPhát triển dịch vụ tổng hợp hiện đại ngày càng giữ vai trò chủ đạo; du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Ưu tiên thu hút công nghiệp xanh, công nghiệp sạch, công nghệ cao, công nghệ thông minh, thân thiện với môi trường. Tăng nhanh tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo; phát triển hợp lý, bền vững ngành công nghiệp khai khoáng. Phát triển kinh tế biển và nông nghiệp sinh thái. Phát triển doanh nghiệp và phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, khởi nghiệp sáng tạo, phát triển sản phẩm chủ lực và xây dựng thương hiệu của Tỉnh, tạo sự liên kết giữa các thành phần kinh tế. 

Từ thực tiễn, Quảng Ninh xin được đề xuất một số giải pháp để triển khai có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: 

(1) Tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa Chính phủ và các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương gắn với ràng buộc trách nhiệm, tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực. Thí điểm áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc thù, khuyến khích đổi mới sáng tạo tăng quyền chủ động về quản lý tài chính, nguồn vốn, đầu tư, đất đai... đối với một số địa phương trọng điểm để tạo đột phá về tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy liên kết vùng và nhân rộng mô hình có hiệu quả.

(2) Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Luật tổ chức chính quyền địa phương cho phù hợp với tinh thần các Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XII) và Nghị quyết XIII của Đảng; kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Thay mặt Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, tôi xin kính chúc sức khỏe Đoàn Chủ tịch Đại hội và các đồng chí đại biểu.

Chúc Đại hội thành công tốt đẹp. 

Xin trân trọng cảm ơn./.

Phản hồi

Các tin khác