10 thành tựu nổi bật của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội

1.Tạo dấu ấn đặc biệt trong công tác xây dựng thể chế

Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế phải gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, trong nhiệm kỳ 2016-2021, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tập trung thực hiện tốt đột phá chiến lược về xây dựng và hoàn thiện thể chế. Cụ thể, đã tham mưu, trình Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 27–NQ/TW về cải cách chính sách tiền lương (phần khu vực doanh nghiệp) và Nghị quyết số 28 – NQ/TW về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội. Đây là những quyết sách quan trọng, đặt nền tảng thể chế về lĩnh vực lao động – việc làm cho giai đoạn tới.

Bộ đã trình Quốc hội ban hành 3 luật, bao gồm: Luật Trẻ em năm 2016, Bộ luật Lao động năm 2019; Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) năm 2020; trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua Pháp lệnh ưu đãi người có công (sửa đổi); trình Chính phủ ban hành 40 Nghị định, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều Quyết định; ban hành theo thẩm quyền 119 Thông tư và trình thông qua 3 Công ước quốc tế.

2. Thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp

 Giáo dục nghề nghiệp đã có chuyển biến mạnh mẽ. (Ảnh: DT) 

Giai đoạn 2016-2020, Bộ đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn triển khai Luật Giáo dục nghề nghiệp, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Đặc biệt, việc Bộ tham mưu Chính phủ thống nhất 1 đầu mối quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp về Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tiếp nhận chức năng quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp đối với các trường cao đẳng, trường trung cấp từ ngành giáo dục và đào tạo; hoàn thiện toàn bộ thể chế về lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp; tổ chức thành công nhiều hội nghị triển khai công tác đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm trong và ngoài nước…đã giúp nhận thức về học nghề, phát triển giáo dục nghề nghiệp trong toàn xã hội và người dân đã có chuyển biến mạnh mẽ; vị thế, vai trò của hệ thống giáo dục nghề nghiệp trong hệ thống giáo dục quốc dân được nâng cao.

3. Tạo nhiều đột phá trong lĩnh vực người có công

Năm 2020, lần đầu tiên Bộ LĐ-TB&XH tổ chức Hội nghị gặp mặt 300 Mẹ Việt Nam Anh hùng. (Ảnh: KT)

Những năm qua, cùng với việc tham mưu Ban Bí thư ban hành và triển khai có hiệu quả Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 14/7/2017 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng, Bộ đã tập trung chỉ đạo, triển khai một số nhiệm vụ mang tính đột phá, thực hiện chính sách ưu đãi người có công.

Cụ thể, nghiên cứu, ban hành và chỉ đạo hướng dẫn các địa phương thực hiện Quyết định số 408/QĐ-LĐTBXH ngày 20/3/2017 của Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về việc giải quyết hồ sơ tồn đọng đề nghị xác nhận người có công, đã rà soát, giải quyết gần 6.800 hồ sơ tồn đọng trên cả nước.

Xây dựng, vận hành tốt Cổng thông tin điện tử về liệt sĩ, mộ liệt sĩ, nghĩa trang liệt sỹ tạo điều kiện thuận lợi để gia đình, thân nhân có thể thăm viếng, theo dõi khai thác thông tin trực tuyến, tìm mộ liệt sĩ trên cả nước; thực hiện Đề án xác định danh tính hài cốt liệt sỹ còn thiếu thông tin; hoàn thành hỗ trợ 493 ngàn nhà ở cho người có công với cách mạng có khó khăn về nhà ở theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ; lập Quy hoạch mạng lưới cơ sở nuôi dưỡng, điều dưỡng người có công với cách mạng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Bộ đã chủ trì lần đầu tiên tổ chức Hội nghị gặp mặt, tuyên dương 500 thương binh nặng tiêu biểu toàn quốc; Hội nghị gặp mặt 300 Mẹ Việt Nam anh hùng qua đó, thể hiện rõ sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước đối với người có công với cách mạng và thân nhân. Các cuộc gặp mặt đã để lại dấu ấn sâu sắc và sự đồng tình cao trong dư luận xã hội…

4. Giải quyết việc làm cho trên 8 triệu lao động

Trong những năm qua, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển thị trường lao động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với nhiều giải pháp đồng bộ nhằm kết nối cung – cầu lao động, giai đoạn 2015- 2020, các trung tâm dịch vụ việc làm đã tổ chức gần 6 nghìn phiên giao dịch việc làm, giới thiệu và cung ứng gần 5 triệu lượt người, 68,5% trong số đó có kết nối việc làm thành công. Kết quả, cả nước đã giải quyết được trên 8 triệu việc làm, thị trường lao động Việt Nam có sự chuyển biến tích cực; cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực theo cơ cấu kinh tế; tỷ lệ thất nghiệp chung là 2,48% số người trong độ tuổi lao động, khu vực thành thị luôn duy trì dưới 4%.

Đối với công tác đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, các giải pháp duy trì và phát triển các thị trường lao động ngoài nước được tiếp tục thực hiện đồng bộ, mở mới nhiều thị trường tiềm năng ở châu Âu (Séc, Đức, Áo, Bulgari, Rumani). Trong cả giai đoạn 2016 -2020, cả nước đưa khoảng 635 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (vượt chỉ tiêu 24%, về đích kế hoạch 5 năm trước 1 năm).Trong đó, số lao động đưa đi năm 2019 đạt mức kỷ lục là hơn 150 ngàn người.

5. Lần đầu tiêp áp dụng chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều

Giai đoạn 2016-2020, Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia đầu tiên của châu Á áp dụng chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều. Lĩnh vực giảm nghèo tiếp tục được Quốc hội, Chính phủ quan tâm, ưu tiên bố trí nguồn lực đầu tư trung hạn để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.

Nhờ đó, công tác giảm nghèo giai đoạn này đã giúp nâng cao thu nhập, cải thiện cả đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, người dân trên địa bàn nghèo, vùng đặc biệt khó khăn; tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) của cả nước giảm từ 9,88% cuối năm 2015 xuống còn 2,75% vào cuối năm 2020, tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, các xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu vùng dân tộc và miền núi giảm khoảng 3-4%/năm; tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm bình quân 4%/năm. Thu nhập bình quân hộ nghèo đến cuối năm 2020 tăng gấp 1,6 lần so với năm 2015. Diện mạo nghèo đói ở tất cả các vùng miền trên cả nước đã cải thiện đáng kể.

Việt Nam đã hoàn thành, về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.

6. Công tác trợ giúp xã hội ngày càng được mở rộng, diện bao phủ ngày càng lớn

Những tấm gương điển hình tại Lễ tuyên dương "Những tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng”. (Ảnh: DT)

Chính sách pháp luật về trợ giúp xã hội từng bước được hoàn thiện; Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật và các chương trình, đề án trợ giúp đối tượng yếu thế được thực hiện đồng bộ; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người cao tuổi, người khuyết tật…

Đến nay, chính sách trợ giúp xã hội đã bao phủ hầu hết các nhóm đối tượng ở mọi lứa tuổi, 3% dân số và 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội thường xuyên hằng tháng; bảo đảm 100% người dân bị thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, thiếu đói, dịch bệnh được trợ giúp đột xuất kịp thời, không người dân nào bị đói; chăm sóc và phát huy tốt hơn vai trò người cao tuổi; người khuyết tật được trợ giúp phục hồi chức năng, đào tạo nghề và tạo việc làm nên đời sống được ổn định và có phần cải thiện…

Đặc biệt, năm 2020, Bộ đã lần đầu tiên tổ chức quy mô toàn quốc Lễ tuyên dương 400 điển hình “Những tấm gương sáng thầm lặng vì cộng đồng” nhằm tôn vinh những tổ chức, cá nhân có thành tích đặc biệt trong công tác trợ giúp xã hội, phát triển cộng đồng, tạo hiệu ứng tốt trong xã hội.

7. Quyền cơ bản của trẻ em được tôn trọng và đảm bảo

Hệ thống pháp luật, chính sách về trẻ em từng bước được hoàn thiện, đồng bộ; Bộ đã hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương thực hiện có hiệu quả Luật Trẻ em và các chương trình, đề án, dự án về bảo vệ, chăm sóc trẻ em; dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Chính phủ đã thành lập Ủy ban quốc gia về trẻ em để giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thực hiện chỉ đạo, phối hợp, đôn đốc, điều phối giữa các bộ, ngành và địa phương để trẻ em ngày càng được hưởng đầy đủ hơn các quyền của mình trong đó có quyền phát triển và tham gia.

Cùng với đó, các giải pháp phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em, phòng, chống tai nạn, thương tích trẻ em cũng được tăng cường. Đến nay, cả nước có 6,2 triệu ngôi nhà thuộc các hộ gia đình có trẻ em đạt tiêu chí Ngôi nhà an toàn, 26.000 trường học đạt tiêu chuẩn Trường học an toàn, 6.000 xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn Cộng đồng an toàn. Đến cuối năm 2020 có 72% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp dưới các hình thức; 55% xã, phường, thị trấn đạt tiêu chuẩn phù hợp với trẻ em…

8. Chủ động tham mưu, triển khai chính sách an sinh xã hội

 

 Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung trao hỗ trợ cho người dân bị ảnh hưởng
bởi dịch COVID-19 tại quận Hà Đông, TP Hà Nội. (Ảnh minh họa: DT) 

Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID -19 hoành hành, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã tập trung cho công tác phòng, chống dịch COVID-19; chủ động phối hợp với các bộ, ngành có liên quan trình Chính phủ thông qua Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 09/4/2020 về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg ngày 24/4/2020 quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 và phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện Gói hỗ trợ an sinh xã hội đến đúng đối tượng, nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả.

Chính phủ và các địa phương trong đại dịch COVID-19 đã hỗ trợ 31,5 nghìn tỷ đồng đảm bảo đời sống và hỗ trợ việc làm cho người dân, người lao động, trong đó ngân sách chi trực tiếp trên 12,9 nghìn tỷ đồng cho trên 13 triệu người dân bị ảnh hưởng. Gói hỗ trợ đó đã giúp đỡ nhiều người dân trong việc khắc phục ảnh hưởng của đại dịch COVID, tạo sự ủng hộ, lan tỏa sâu rộng trong xã hội…

9. Hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Cộng đồng văn hóa xã hội ASEAN năm 2020

Trong những năm qua, thực hiện phân công của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội với vai trò Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc gia và Chủ tịch Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN, Bộ đã thực hiện tốt vai trò đầu mối triển khai các hoạt động của Cộng đồng Văn hóa xã hội ASEAN, tiếp tục đẩy mạnh triển khai Chiến lược hội nhập quốc tế về lao động và xã hội trong khuôn khổ song phương, đa phương, ASEAN và các tổ chức phi chính phủ.

Riêng trong năm Chủ tịch ASEAN 2020, mặc dù chịu tác động không nhỏ từ đại dịch COVID -19, song Bộ vẫn triển khai được nhiều hoạt động đúng tiến độ, tiết kiệm, hiệu quả; trong đó, tổ chức Hội nghị Bộ trưởng trực tuyến của Cộng đồng văn hóa – xã hội ASEAN lần thứ 23 và 24 và các Hội nghị cấp quan chức liên quan; Hội nghị cấp cao của các Bộ trưởng Lao động ASEAN và các Bộ trưởng Giáo dục ASEAN về Phát triển Nguồn nhân lực cho thế giới công việc đang đổi thay; Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN và Bộ trưởng Lao động Phúc lợi Xã hội và Phát triển ASEAN đặc biệt về COVID-19 đồng thời đảm bảo được tiến độ xây dựng và nội dung của các văn kiện, tuyên bố quan trọng được Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 36 và 37 thông qua và ghi nhận…

10. Niềm tin của người dân về chính sách xã hội được nâng lên

Quan tâm đến quyền lợi của người dân và cộng đồng xã hội, công tác trả lời cử tri, chất vấn của các đại biểu Quốc hội; tiếp công dân, tiếp nhận, xử lý đơn thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo được Lãnh đạo Bộ đặc biệt quan tâm, dành thời gian tiếp định kỳ để lắng nghe, chia sẻ, giải quyết khó khăn, vướng mắc của người dân và các đối tượng chính sách. Trong thời gian qua, tổng số lượt công dân đến trụ sở của Bộ và được tiếp là 13.981 lượt người, đã tiếp nhận 27.435 đơn thư với 100% số đơn thư được xử lý theo thẩm quyền.

Báo cáo điều tra dư luận xã hội số 9989 ngày 05/01/2021 của Ban Tuyên giáo Trung ương cho thấy, niềm tin của nhân dân về đảm bảo an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội, thực hiện tốt chính sách người có công, tỷ lệ đánh giá tốt chiếm 72%; về xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, tỷ lệ đánh giá tốt chiếm 68%, tăng 13 bậc so với năm 2019. Đây có thể nói là kết quả vô giá, thể hiện sự quan tâm và sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước, các cấp, các ngành, các địa phương trong triển khai các chính sách an sinh xã hội./.

Phản hồi

Các tin khác