Đã xét xử gần 7.500 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế nghiêm trọng

 Sáng 25/3, tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội họp phiên toàn thể tại Hội trường, nghe trình bày báo cáo công tác của các tòa án trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV (2016-2021).

Trình bày tóm tắt báo cáo về công tác của các tòa án trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình nêu rõ trong nhiệm kỳ qua, mặc dù số lượng công việc tăng (bình quân mỗi năm tăng khoảng 8%) với tính chất phức tạp, quy mô lớn và phải thực hiện nghiêm việc tinh giản biên chế nhưng các tòa án đã không ngừng đổi mới, triển khai nhiều biện pháp đột phá, sáng tạo nên đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Quốc hội giao và đạt được nhiều kết quả nổi bật.

Không để xảy ra trường hợp nào kết án oan người không có tội

Cụ thể, hệ thống Tòa án nhân dân đã hoàn thành nhiệm vụ, xét xử đạt và vượt các chỉ tiêu, yêu cầu quan trọng Quốc hội giao với chất lượng cao.

Các tòa án đã thụ lý 2.433.631 vụ việc, đã giải quyết được 2.375.983 vụ việc, đạt tỷ lệ 97,6% (so với nhiệm kỳ trước, thụ lý tăng 624.551 vụ việc, đã giải quyết tăng 594.573 vụ việc). Chất lượng xét xử tiếp tục được bảo đảm và có nhiều tiến bộ. Tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan hằng năm đều dưới 1,5%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội.

Đặc biệt đã xét xử các vụ án hình sự đạt tỷ lệ 99,5%; đã giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động đạt tỷ lệ 97,3%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết của Quốc hội.

“Việc xét xử các vụ án hình sự bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, trong nhiệm kỳ không để xảy ra trường hợp nào kết án oan người không có tội. Việc giải quyết, xét xử các vụ việc dân sự, vụ án hành chính đúng pháp luật”, Chánh án khẳng định.

Đáng chú ý, thực hiện chỉ đạo của Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng trung ương, các tòa án đã đưa ra xét xử nghiêm 7.463 vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp với 14.540 bị cáo và áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nghiêm khắc đối với người chủ mưu, cầm đầu, lợi dụng chức vụ chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Đã áp dụng các biện pháp thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản để thu hồi hàng chục nghìn tỷ đồng theo đúng quy định của pháp luật. Việc tổ chức xét xử các vụ án tham nhũng, chức vụ, kinh tế được Đảng, Nhà nước và nhân dân đánh giá cao, dư luận đồng tình, ủng hộ.

Cùng với đó, Tòa án nhân dân đã tập trung nguồn lực, nâng cao chất lượng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, đơn thư khiếu nại, tố cáo. Đã đề ra nhiều giải pháp để đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng giải quyết, do đó, tỷ lệ giải quyết đơn trong những năm gần đây có nhiều tiến bộ, năm sau luôn đạt cao hơn năm trước.

Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao đã tích cực tham gia xây dựng thể chế; tăng cường công tác xây dựng và đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật. Đã công bố được 39 án lệ; nghiên cứu xây dựng 03 cuốn “Án lệ và Bình luận” và Giáo trình “Án lệ và thực tiễn xét xử”; vận hành có hiệu quả Trang tin điện tử về án lệ với nhiều nội dung phong phú. Nhiệm kỳ qua đã có hơn 1000 vụ án viện dẫn án lệ trong xét xử. Bước đầu đã hình thành kỹ năng và tập quán áp dụng án lệ trong xét xử như xu thế chung của thế giới.

Các phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp

Một trong những kết quả nổi bật theo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tại nhiệm kỳ này là các phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp được chỉ đạo đổi mới theo hướng công tác xét xử phải tuân thủ pháp luật, đảm bảo nguyên tắc tranh tụng. Hội đồng xét xử thực hiện đầy đủ các quyền năng pháp lý. Các thẩm phán đã nhận thức sâu sắc hơn tranh tụng là con đường đi đến công lý nên đã thực hiện nghiêm Chỉ thị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc không hạn chế thời gian tranh tụng, ghi nhận tất cả các vấn đề tranh tụng và căn cứ vào kết quả tranh tụng để đưa ra phán quyết. Những kiến nghị của tòa án không chỉ khắc phục sai sót của các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn khắc phục sơ hở trong cơ chế, chính sách quản lý vĩ mô và thực thi pháp luật của các cơ quan nhà nước, chính vì vậy chất lượng xét xử không ngừng được nâng lên.

Việc công khai bản án, quyết định của tòa án trên Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân được các tòa án trong toàn quốc thực hiện nghiêm túc, thực chất, có hiệu quả và đến nay đã dần đi vào nề nếp với chất lượng các bản án ngày càng tốt hơn. Đã công bố được hơn 600.000 bản án, quyết định trên Internet…

Xét xử nghiêm minh, kịp thời các vụ án tham nhũng

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình trình bày báo cáo trước Quốc hội. (Ảnh: TH)

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình trình bày báo cáo trước Quốc hội. (Ảnh: TH)

Thẩm tra báo cáo của Chánh án TANDTC, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp (UBTP) Lê Thị Nga cho biết: UBTP tán thành với báo cáo của TANDTC và nhận thấy, trong nhiệm kỳ qua, TAND các cấp đã triển khai đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự. Tỷ lệ giải quyết án đạt 99,5%, vượt 11,5% so với chỉ tiêu của Quốc hội. Đã căn bản khắc phục được việc để án quá thời hạn, hầu hết các vụ án đưa ra xét xử đều trong thời hạn luật định; riêng án kinh tế, tham nhũng, không có vụ án nào để quá thời hạn. Đặc biệt, trong cả nhiệm kỳ, chưa phát hiện trường hợp nào kết án oan người vô tội. Hình phạt mà tòa án áp dụng cơ bản nghiêm minh, đúng pháp luật. Tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan đạt chỉ tiêu của Quốc hội (không quá 1,5%) và giảm dần qua các năm. Đã đưa ra xét xử nghiêm minh, kịp thời các vụ án tham nhũng, chú trọng áp dụng các biện pháp nhằm tăng tỷ lệ thu hồi tài sản.

Tuy nhiên, Chủ nhiệm UBTP chỉ ra vẫn còn một số trường hợp phải hủy, sửa án do nguyên nhân chủ quan. Một số trường hợp áp dụng tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, cho hưởng án treo chưa chính xác. Qua khảo sát cho thấy, số lượng kháng nghị giám đốc thẩm của TAND cấp cao đối với TAND cấp huyện ít hơn so với trước đây khi thẩm quyền này thuộc TAND cấp tỉnh.

Một số vụ án hành chính thời gian giải quyết còn dài. Tỷ lệ bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan chưa đạt chỉ tiêu của Quốc hội; một số vụ án, thẩm phán có sự e ngại, nể nang nhất định đối với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương./.

Phản hồi

Các tin khác