Toàn cảnh phiên trù bị Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XIX, nhiệm kỳ 2020 - 2025. (Ảnh: NC)
Theo báo cáo, đã có hơn 175.000 lượt ý kiến của cán bộ, đảng viên và Nhân dân trong tỉnh góp ý xây dựng dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng. Hầu hết các ý kiến nhất trí cao với nội dung của các dự thảo văn kiện.
Các dự thảo văn kiện được đánh giá chuẩn bị công phu, bài bản, kỹ lưỡng, nghiêm túc; kết cấu chặt chẽ, khoa học, quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển; kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Báo cáo Chính trị là văn kiện trung tâm của Đại hội, đã đánh giá khách quan, toàn diện và cụ thể các kết quả đạt được; thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm.
Về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ giải pháp cho giai đoạn 2020 - 2025 và định hướng phát triển đến năm 2030, năm 2045, các ý kiến khẳng định các văn kiện dự thảo thể hiện được những quan điểm, chủ trương lớn, giải pháp chủ yếu. Qua đó thể hiện rõ tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, khát vọng phát triển của dân tộc và quyết tâm chính trị của toàn Đảng, hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân ta.
Các ý kiến tập trung vào một số nội dung quan trọng sau:
1. Về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và diện mạo đất nước qua 35 năm đổi mới: Hầu hết các ý kiến đều nhất trí với đánh giá về những thành tựu, hạn chế, khuyết điểm nổi bật và nhận định tổng quát về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XII. Báo cáo đã đánh giá đúng kết quả đạt được về kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, quan hệ đối ngoại, công tác xây dựng Đảng…
Về tầm nhìn và định hướng phát triển, một số ý kiến đề nghị bổ sung dự báo khó khăn, thách thức về diễn biến mới của tình hình dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch COVID-19, những tác động của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tình hình Biển Đông, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung... tác động trực tiếp đến nước ta trong những năm tới.
Về mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, năm 2030, năm 2045, hầu hết ý kiến đề nghị chọn phương án 2. Theo đó, đến năm 2025, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có thu nhập trung bình cao; đến năm 2030, trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập cao.
Về các chỉ tiêu chủ yếu, nhiều ý kiến nhất trí với dự thảo báo cáo. Một số ý kiến cho rằng trong giai đoạn đầu thực hiện kế hoạch 5 năm (2021 - 2025), nền kinh tế nước ta sẽ tiếp tục chịu tác động bất lợi của tình hình dịch bệnh COVID-19, nên việc đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm khoảng 7% là cao, không khả thi; đề nghị cân nhắc, điều chỉnh cho phù hợp.
Về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh và bền vững, hầu hết các ý kiến đều nhất trí với các nội dung trong dự thảo. Có ý kiến đề nghị Đảng và Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, phát triển ngành, lĩnh vực cho phù hợp yêu cầu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chú trọng phát triển liên kết vùng trong quá trình hoạch định và thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Về thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, đa số ý kiến nhất trí với nội dung trong dự thảo. Một số ý kiến đề nghị bổ sung giải pháp đưa kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn cuộc sống; quan tâm phát triển thị trường khoa học và công nghệ; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư phát triển khoa học và công nghệ; tăng cường giám sát việc phân bổ và quyết toán ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ; áp dụng nguyên tắc phân bổ đặc thù, không áp dụng theo nguyên tắc phân bổ cho chi hành chính đối với các lĩnh vực như: Mở rộng mô hình quỹ khoa học công nghệ; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ, phát triển sản phẩm bằng cách đánh thuế thu nhập hợp lý để có nguồn đầu tư...
Về quản lý và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, nhiều ý kiến cho rằng, thời gian qua công tác quản lý, sử dụng đất đai còn nhiều hạn chế và là nguyên nhân của không ít vụ khiếu kiện, bức xúc trong Nhân dân, bị các thế lực thù địch lợi dụng để chống phá, làm mất an ninh - trật tự. Vì vậy, đề nghị có giải pháp cụ thể để khắc phục tình trạng này.
Về tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, hầu hết ý kiến nhất trí với nội dung trong dự thảo. Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung về “sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, chống phá của các thế lực thù địch”.
Về phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của Nhân dân, có ý kiến đề nghị thay cụm từ “Mọi hoạt động” bằng cụm từ “Toàn bộ hoạt động”, bổ sung cụm từ “khi thực thi công vụ” vào sau cụm từ “công chức” và sửa lại thành “Toàn bộ hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức khi thực thị công vụ phải xuất phát từ lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân”. Một số ý kiến khác đề nghị bổ sung một số nội dung, như: Phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng các dân tộc thiểu số; quan tâm trợ giúp người khuyết tật, người yếu thế trong xã hội.
Về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đa số ý kiến nhất trí với nội dung trong dự thảo. Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “kiên quyết chống biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống xa dân, coi thường dân, đặc quyền, đặc lợi trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền từ Trung ương đến địa phương” vào tiếp sau đoạn “đấu tranh có hiệu quả các căn bệnh chủ nghĩa cá nhân”. Có ý kiến đề nghị Đảng ta phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng lãng phí, đấu tranh đẩy lùi sự suy thoái về tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Việc này cần được thực hiện thường xuyên, liên tục và kiên quyết hơn nữa.
Về các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, hầu hết ý kiến đều nhất trí với 6 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá chiến lược nhiệm kỳ Đại hội XIII như trong dự thảo. Có ý kiến đề nghị bổ sung đoạn “Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc” vào nhiệm vụ trọng tâm thứ 3 và hoàn chỉnh thành “Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”.
2. Về dự thảo báo cáo tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030. Hầu hết ý kiến nhất trí cao với những nhận định, đánh giá về kết quả thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020; các nhiệm vụ trọng tâm, đột phá, các nhiệm vụ, giải pháp thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030. Các ý kiến đều cho rằng, báo cáo đã đánh giá, nhận định đầy đủ và sát, đúng tình hình 10 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và nổi bật như đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay”.
Về kết quả thực hiện, hầu hết ý kiến nhất trí với nhận định, đánh giá về kết quả đạt được, những hạn chế, yếu kém, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm như dự thảo báo cáo. Một số ý kiến đề nghị bổ sung việc thực hiện một số mục tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 mà Đại hội XI của Đảng đã quyết nghị, như: Tốc độ tăng dân số, tuổi thọ bình quân; tỷ lệ che phủ rừng; tỷ lệ dân cư thành thị, nông thôn được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh; tỷ lệ cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn về môi trường; tỷ lệ xử lý rác thải…
Về mục tiêu phát triển, hầu hết ý kiến nhất trí lựa chọn mục tiêu phát triển theo phương án 2: “Đến năm 2030, trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, thuộc nhóm trên của các nước có thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập cao”.
Về 3 đột phá chiến lược, hầu hết ý kiến nhất trí cao với 3 đột phá chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030; đây là sự kế thừa và phát triển 3 đột phá của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020, phản ánh đúng trọng tâm, trọng điểm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện trong 10 năm tới. Hầu hết ý kiến đánh giá cao việc nghiên cứu, bổ sung các nội hàm mới vào các đột phá, như: Phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng, lòng tự hào dân tộc và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam… Có ý kiến đề nghị ghi rõ thể chế chính trị ở nước ta hiện nay là “thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa” và nhấn mạnh đây là một hình thức của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, trong đó có lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý, điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm và phát huy quyền lực thực sự của Nhân dân.
Về phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, nhiều ý kiến nhất trí cao với dự thảo báo cáo. Tại mục 2 về phát triển mạnh mẽ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo: Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “Xây dựng và triển khai chiến lược Quốc gia về phát triển doanh nghiệp công nghệ; ưu tiên phát triển doanh nghiệp công nghệ số, doanh nghiệp công nghệ cao thực hiện thiết kế, sáng tạo và sản xuất tại Việt Nam. Tại mục 7 về quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên; tăng cường bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu: Một số ý kiến đề nghị quan tâm, có giải pháp cụ thể, hữu hiệu nhằm xử lý có hiệu quả rác thải đô thị, ô nhiễm môi trường và chống hạn, xâm nhập mặn vùng ven biển; có chủ trương, chính sách cụ thể về quy hoạch, sắp xếp dân cư, tái định cư, ổn định sản xuất cho các chòm, bản các huyện miền núi có nguy cơ cao xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất...
3. Về dự thảo báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, hầu hết ý kiến nhất trí với những nhận định, đánh giá trong dự thảo báo cáo. Một số ý kiến tham gia vào các vấn đề cụ thể sau:
Hầu hết ý kiến nhất trí với những nhận định, đánh giá trong dự thảo Báo cáo; nội dung đánh giá đảm bảo đầy đủ, toàn diện và sát, đúng với tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020.
Đa số ý kiến nhất trí với mục tiêu đến năm 2025 theo phương án 2: “Cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có thu nhập trung bình cao”. Phương án này là phù hợp với tình hình, khả năng của nước ta và xu thế vận động, phát triển của thế giới trong thời gian tới.
Về các chỉ tiêu chủ yếu, nhiều ý kiến nhất trí với các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2025 như dự thảo báo cáo. Một số ý kiến cho rằng, giai đoạn đầu thực hiện kế hoạch 5 năm (2021 - 2025), nền kinh tế nước ta sẽ chịu tác động bất lợi của dịch COVID-19, nên việc đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm khoảng 7% là cao, không khả thi; đề nghị cân nhắc, điều chỉnh cho phù hợp. Nhiều ý kiến cho rằng mục tiêu về tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đến năm 2025 đạt trên 25% là quá thấp và không phù hợp, do dự báo kết quả thực hiện đến năm 2020 (trang 184) đã đạt khoảng 25%.
- Một số ý kiến cho rằng chỉ tiêu về tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh đến năm 2025 của dân cư thành thị là 95-100% và nông thôn là 93-95% là cao; đề nghị nghiên cứu, cân nhắc để điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế; đồng thời, đề nghị tách chỉ tiêu nêu trên thành 02 chỉ tiêu riêng biệt, gồm: tỷ lệ dân cư được sử dụng nước sạch và tỷ lệ dân cư được sử dụng nước hợp vệ sinh, tạo thuận lợi trong quá trình theo dõi, đánh giá kết quả thực hiện.
Về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: Giải pháp về xuất, nhập khẩu và phát triển thị trường trong nước có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “sớm hoàn thiện các quy định pháp luật về thương mại điện tử nhằm thúc đẩy phát triển thương mại điện tử; đồng thời, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”. Giải pháp về cơ cấu các ngành sản xuất và dịch vụ có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “bảo tồn, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa làng, văn hóa các dân tộc” vào đoạn “Tiếp tục triển khai mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với quá trình đô thị hóa…”
Giải pháp về cơ cấu lại các lĩnh vực quan trọng, có ý kiến đề nghị làm rõ giải pháp về phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ công, trong đó cần nhấn mạnh việc thực hiện công khai, minh bạch, dân chủ, pháp quyền, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công ở nước ta trong những năm tới.
Giải pháp về nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và bảo đảm quyền tự do, dân chủ của người dân trong phát triển kinh tế - xã hội có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân”.
4. Về dự thảo báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII, hầu hết ý kiến nhất trí với dự thảo Báo cáo. Một số ý kiến tham gia vào các vấn đề cụ thể sau:
Về công tác xây dựng Đảng, đa số ý kiến cho rằng những nhận định, đánh giá về kết quả đạt được và hạn chế của 10 nhiệm vụ công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XII đã đảm bảo đầy đủ, toàn diện, sâu sắc, sát, đúng với thực tiễn.
Có ý kiến cho rằng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được thực hiện ở nhiều nhiệm kỳ, song kết quả đạt được chưa như kỳ vọng. Riêng nhiệm kỳ Đại hội XII, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả hết sức quan trọng, góp phần củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Vì vậy, đề nghị chỉnh sửa cụm từ: “với quyết tâm chính trị cao” thành “với quyết tâm chính trị rất cao”.
Có ý kiến cho rằng nội dung phần đánh giá công tác xây dựng Đảng còn chung chung, chưa phân tích sâu sắc những vấn đề mang tính then chốt, chi phối toàn bộ quá trình lãnh đạo, chỉ đạo; đồng thời, đề nghị bổ sung các số liệu minh chứng về kết quả đạt được trong công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng…
Về hạn chế, khuyết điểm và nguyên nhân: Một số ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “Nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội chậm đổi mới, ở nhiều nơi còn hình thức, hành chính, hiệu quả chưa cao, chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới” vào phần hạn chế, khuyết điểm. Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “Việc triển khai một số nghị quyết của Đảng ở một số cấp ủy còn hình thức, nhất là chi bộ, dẫn đến nhận thức của một số cán bộ, đảng viên về nghị quyết chưa đầy đủ” vào khổ đầu phần hạn chế, khuyết điểm.
Về nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp đột phá: Có ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “tăng cường sự giám sát của Nhân dân trên các lĩnh vực để Đảng tự hoàn thiện, chỉnh đốn” vào giải pháp đột phá về “Phát huy dân chủ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với tạo môi trường đổi mới, sáng tạo trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ”.
Về thi hành Điều lệ Đảng, nhiều ý kiến đề nghị bổ sung nội dung “chưa được quan tâm đúng mức” vào phần hạn chế và sửa lại thành: “Việc kết nạp đảng viên trong các doanh nghiệp ngoài khu vực Nhà nước, ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo… chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn nhiều khó khăn”.
Về nguyên tắc tổ chức và cơ cấu tổ chức đề nghị bỏ nội dung “Nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện thiếu nghiêm túc, thậm chí có nơi còn vi phạm nghiêm trọng”, do đây là hạn chế, khuyết điểm, không phải vướng mắc, bất cập và đã được nêu ở phần hạn chế.
Về tổ chức cơ sở đảng, có ý kiến đề nghị điều chỉnh thời gian nhiệm kỳ Đại hội chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở từ 2,5 năm lên 5 năm như nhiệm kỳ Đại hội đảng bộ cơ sở.
Một số ý kiến đề nghị đánh giá sâu hơn về chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở đảng; cần có hướng dẫn cụ thể hơn về hình thức tham gia sinh hoạt đảng đối với các đảng viên công tác xa; nơi sinh hoạt đảng của đảng viên làm việc trong các doanh nghiệp khi doanh nghiệp chưa thành lập tổ chức cơ sở đảng./.
Nhóm PV