11 nhiệm vụ nổi bật ngành Kế hoạch và Đầu tư
Khen thưởng các cá nhân và tập thể xuất sắc ngành kế hoạch và đầu tư nhân kỷ niệm 75 năm thành lập ngành (Ảnh: MPI)

Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ rõ, giai đoạn 2015-2020, toàn ngành đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đặc biệt có 11 nhóm kết quả nổi trội, bao gồm:

Thứ nhất, tiên phong khởi xướng làn sóng cải cách thể chế, với tư tưởng đổi mới mạnh mẽ, tư duy phát triển mang tính đột phá, táo bạo, có tầm nhìn dài hạn và chiến lược, vượt qua những lợi ích cục bộ, vì sự nghiệp phát triển chung của đất nước để đề xuất xóa bỏ hàng nghìn điều kiện kinh doanh bất hợp lý, góp phần xây dựng niềm tin, sự hứng khởi và tinh thần đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội, người dân và doanh nghiệp.

Thứ hai, về công tác tham mưu xây dựng chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Với trách nhiệm được giao là cơ quan thường trực của Tổ Biên tập thuộc Tiểu ban Kinh tế - Xã hội phục vụ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành trung ương và địa phương tổng hợp, xây dựng, tham mưu cho Đảng và Nhà nước Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm lần thứ tư giai đoạn 2021-2030 và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 11 giai đoạn 2021-2025.

Các văn kiện này đã thực sự trở thành kim chỉ nam, phương hướng, đường lối phát triển của đất nước trong chặng đường mới. Đặc biệt, dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 đã định hướng đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước, nước ta là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; dự thảo Chiến lược lần thứ 4 đã định hướng tầm nhìn dài hạn đến đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, cũng là 100 năm xây dựng và phát triển của ngành Kế hoạch và Đầu tư, trở thành nước phát triển, thu nhập cao với 06 quan điểm phát triển hiệu quả và bền vững.

Thứ ba, về công tác quản lý nhà nước về đầu tư công. Tiếp theo Luật Đầu tư công số 49/2014/QH13, Bộ đã báo cáo Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14 với nhiều quy định mới giúp quản lý chặt chẽ hơn toàn bộ quá trình đầu tư công nhưng cũng đẩy mạnh phân cấp, trao quyền, trao sự chủ động trong quản lý hoạt động đầu tư công gắn với trách nhiệm của từng cấp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý sử dụng vốn nhà nước đối với toàn bộ quá trình đầu tư.

Việc bố trí nguồn vốn đầu tư công trong giai đoạn 2021-2025 tiếp tục được đổi mới mạnh mẽ, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với kế hoạch đầu tư công. nguồn vốn đầu tư công được tập trung chủ yếu đầu tư các dự án quan trọng quốc gia, dự án lớn, trọng điểm, có tính kết nối, tác động lan tỏa tới phát triển liên vùng, vùng và địa phương; tập trung vào những dự án mang tính chất “quả đấm thép” trong tăng trưởng, tạo ra động lực mới, không gian mới cho phát triển kinh tế, khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.

Thu hút đầu tư nước ngoài trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 là một điểm sáng của ngành trong năm qua (Ảnh: PV)

Thu hút đầu tư nước ngoài trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 là một điểm sáng của ngành trong năm qua.

(Ảnh: PV)

Thứ tư, về thu hút đầu tư nguồn vốn FDI. Giai đoạn 2016-2020, vốn đăng ký và vốn thực hiện tăng mạnh so với giai đoạn trước đó,đặc biệt là năm 2020, mực dù tình hình rất khó khăn nhưng các nhà đầu tư vẫn tiếp tục tin tưởng vào thị trường và môi trường đầu tư của Việt Nam, triển khai mở rộng các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là tín hiệu tích cực và chúng ta cần phải tiếp tục nỗ lực để đáp ứng kỳ vọng của các nhà đầu tư.

Bản thân Bộ cũng đã chủ trì tổng kết, đánh giá toàn diện 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài năm 2018 và xây dựng Đề án trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài.Theo đó việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới phải có chọn lọc hơn, hướng tới việc lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu.

Song song việc thu hút đầu tư, các địa phương cần tổ chức, hỗ trợ hiệu quả, kịp thời cho các nhà đầu tư triển khai xây dựng các dự án với tốc độ nhanh nhất, thời gian ngắn nhất, hiệu quả nhất, đặc biệt là thủ tục về đất đai và giải phóng mặt bằng để giảm chi phí đầu tư, chi phí cơ hội, củng cố niềm tin nhà đầu tư, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp trong nước để liên kết tham gia sâu hơn và chuỗi giá trị sản xuất, phân phối toàn cầu.

Thứ năm, về phát triển doanh nghiệp, kinh tế tập thể. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Cơ chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã đổi mới theo hướng tự chủ kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng, công khai, minh bạch hơn. Hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của một số doanh nghiệp nhà nước được nâng lên. Từng bước tách bạch chức năng quản lý nhà nước và đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước.

Khu vực kinh tế tư nhân đang ngày càng lớn mạnh, từng bước khẳng định là một động lực quan trọng của đất nước. Giai đoạn 2016-2020, trung bình mỗi năm có 128,2 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng ký trung bình trên 1,5 triệu tỷ đồng, tăng 63% về số doanh nghiệp và tăng 216% về số vốn so với giai đoạn 2011-2015.

Ngày càng có nhiều doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn của Việt Nam được hình thành và dẫn đầu trong một số ngành lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Các sản phẩm thương hiệu Việt ngày càng lớn mạnh, các doanh nghiệp muốn lớn mạnh bắt buộc phải vươn ra thị trường quốc tế. Kinh tế tập thể, hợp tác xã những năm gần đây có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, cơ bản khắc phục tình trạng yếu kém kéo dài; đã xuất hiện thêm nhiều loại hình, mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả.

Đây là khu vực đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và ổn định xã hội, góp phần nâng cao năng lực tự chủ, tự lực, tự cường, giải quyết công ăn việc làm cho phần lớn lao động trong nước, nhất là khu vực nông thôn. Chúng ta có trách nhiệm quan tâm, hỗ trợ đặc biệt để nâng cao tỷ lệ đóng góp tăng trưởng của khu vực này cho phát triển kinh tế đất nước.

Thứ sáu, công tác xây dựng quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia. Luật Quy hoạch được Quốc hội thông qua năm 2017 là cơ sở pháp lý để thực hiện thống nhất, đồng bộ các loại quy hoạch phát triển trên phạm vi cả nước, tránh chồng chéo, lãng phí, dàn trải trong sử dụng các nguồn tài nguyên, nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội.

Luật đã xác lập quy hoạch tổng thể quốc gia trong hệ thống quy hoạch, thực hiện quy hoạch tích hợp, đổi mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch để quy hoạch thực sự là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững; tăng cường liên kết vùng, góp phần thúc đẩy công tác quy hoạch các vùng, địa phương theo hướng chặt chẽ, hiệu quả hơn; tạo đột phá về thủ tục hành chính trong đầu tư, sản xuất kinh doanh; khắc phục được tình trạng “xin-cho” các dự án trong quy hoạch

Sau khi Luật ra đời, chúng ta đã loại bỏ 692 quy hoạch không phù hợp, rà soát 320 quy hoạch đã được lập hoặc phê duyệt để tích hợp vào quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh. Đây là kết quả bước đầu để chúng ta sớm xây dựng, hoàn thiện, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt những quy hoạch phát triển mới phù hợp với tầm nhìn phát triển của đất nước, với mục tiêu sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn, bền vững hơn.

Thứ bảy, về công tác thống kê, phân tích và dự báo. Chúng ta đã thực hiện tốt công tác thống kê, bảo đảm nội dung thông tin, số liệu phản ánh trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời và toàn diện bức tranh kinh tế - xã hội của cả nước.

Công tác phân tích và dự báo được chú trọng thực hiện, liên tục theo dõi sát diễn biến, tình hình trong nước và quốc tế, phục vụ tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và điều hành kinh tế - xã hội của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và kịp thời ứng phó hiệu quả với những biến động, vấn đề mới phát sinh trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Trước diễn biến nhanh, phức tạp và khó lường của tình hình quốc tế và trong nước hiện nay, chúng ta cần quyết liệt, tích cực hơn nữa để theo dõi, bám sát tình hình thực tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dự báo, phân tích, đánh giá để có thể tham mưu các chính sách, giải pháp kịp thời, khả thi và hiệu quả cao nhất cho Đảng và Nhà nước trong thời gian tới.

Ngành kế hoạch và đầu tư đã làm tốt vai trò

Ngành kế hoạch và đầu tư đã làm tốt vai trò "tham mưu trưởng" của nền kinh tế. (Ảnh: PV)

Thứ tám, về công tác tham mưu cơ chế chính sách chỉ đạo điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội

Trong giai đoạn vừa qua, chúng ta đã thể hiện tốt bản lĩnh và trách nhiệm của mình, đặc biệt trong 5 năm qua, chúng ta đã thực hiện xuất sắc vai trò tổng tham mưu trưởng của nền kinh tế, chủ động trong công tác tham mưu xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hằng năm, các kịch bản tăng trưởng kinh tế, phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ; đồng thời phối hợp tốt với các cơ quan tổng hợp trong điều hành linh hoạt các chính sách tài chính, tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác…

Dấu ấn rõ nét nhất là trong giai đoạn 2017-2019, khi nền kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng và toàn diện trên tất cả các mặt.

Nhớ lại năm 2017, mặc dù kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, thách thức khi tăng trưởng GDP những quý đầu năm không đạt dự kiến, nhiều ý kiến lo ngại khả năng hoàn thành mục tiêu tăng trưởng cả năm 6,7%. Song Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã tham mưu Chính phủ kiên định mục tiêu tăng trưởng, kiên quyết không điều chỉnhmục tiêu, đồng thời ban hành nhiều nhiệm vụ, giải pháp để nỗ lực phấn đấu, quyết liệt hành động trên mọi mặt, từ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát,đến thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài…Sự quyết tâm và kiên định đó đã mang lại kết quả đáng tự hào, tăng trưởng GDP vượt mục tiêu đề ra và đạt mức tăng trưởng cao nhất trong các năm 2011-2017.

Giữ nguyên tinh thần đó, các năm 2018-2019, chúng ta tiếp tục tham mưu cho Chính phủ nhiều giải pháp điều hành quyết liệt và hiệu quả. Và vì thế, trong hai năm này, chúng ta đã chứng kiến nền kinh tế phát triển bứt phá, đạt và vượt 12/12 chỉ tiêu Quốc hội giao,thể hiện trên nhiều mặt như:tốc độ tăng trưởng GDP cao nhất trong cả thập kỷ qua; lạm phát được kiểm soát ở mức thấp; thu hút, giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, xuất siêu, dự trữ ngoại hối, thành lập mới doanh nghiệp… liên tục thiết lập những kỷ lục mới…

Năm 2020, khi phải đối mặt với những khó khăn chưa từng có trong lịch sử do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, thiên tai bão lũ, sạt lở đất nghiêm trọng…, một lần nữa, trí tuệ và bản lĩnh tiên phong của Ngành được phát huy mạnh mẽ.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã chủ động theo dõi sát sao, liên tục phân tích, đánh giá và dự báo tình hình, cập nhật các kịch bản tăng trưởng kinh tế, xây dựng, tham mưu đề xuất kịp thời cho Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ nhiều nhiệm vụ, giải pháp chính xác, hiệu quả, vừa giúp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, người lao động, vừa giải quyết căn cơ những tồn tại của nền kinh tế, tạo nền tảng tốt cho phục hồi và tận dụng, nắm bắt cơ hội phát triển đất nước.

Tại các địa phương, các cơ quan, đơn vị kế hoạch đầu tư cũng đã phát huy tốt vai trò tham mưu tổng hợp, chủ động đề xuất các giải pháp và tổ chức thực hiện hiệu quả những nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của cả nước.

Có thể khẳng định, với sự nỗ lực đó, chúng ta đã đạt được “mục tiêu kép” trong phòng chống dịch bệnh và phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2020 đạt 2,91%, là quốc gia hiếm hoi duy trì tăng trưởng dương trên thế giới.

Thứ chín, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, đổi mới sáng tạo, xây dựng các mô hình kinh tế mới và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư

Ngành Kế hoạch Đầu tư đã gương mẫu, chứng minh là đơn vị tiên phong trong ứng dụng khoa học, công nghệ thông tin, hiện thực hóa việc Chuyển đổi số toàn diện, tiêu biểu như việc xây dựng và hình thành các hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu: đăng ký Doanh nghiệp; đấu thầu qua mạng; đầu tư công; đầu tư nước ngoài; giám sát đánh giá đầu tư; thông tin thống kê quốc gia... Qua đó, hình thành hệ cơ sở dữ liệu lớn - Big Data cập nhật theo thời gian thực, phục vụ kịp thời, chính xác, hiệu quả cho công tác phân tích, đánh giá, dự báo, tham mưu chỉ đạo điều hành phát triển kinh tế xã hội của Bộ, của ngành và xây dựng kế hoạch dài hạn cho phát triển đất nước, vùng, khu vực và địa phương.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư không chỉ dừng lại ở các câu chuyện phát triển trong ngắn hạn mà đã thể hiện khát vọng và tầm nhìn phát triển cho đất nước khi tham gia nghiên cứu, xây dựng Nghị quyết số 52 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4; xây dựng Chiến lược Quốc gia về Cách mạng công nghiệp 4.0, các mô hình kinh tế mới, như kinh tế ban đêm, kinh tế chia sẻ… nhằm đón đầu các xu hướng phát triển mới của thời đại, phát huy tối đa tiềm lực của đất nước đểbứt phá và vươn lên mạnh mẽ.

Không chỉ tham mưu, hoạch định chính sách mà chúng ta còn trực tiếp hiện thực hóa bằng những bước đi táo bạo nhưng chắc chắn, thận trọng nhưng quyết liệt và khoa học, đó là thành lập Mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam để kết nối trí tuệ Việt Nam trên toàn thế giới; thành lập Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia với những cơ chế đột phá cho phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo; hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp Việt Nam mà trọng tâm là doanh nghiệp nhỏ và vừa…

Thứ mười, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, với vai trò và sự tham gia tích cực trong các ban chỉ đạo Trung ương, Ủy ban quốc gia, Tổ Điều hành kinh tế vĩ mô (Tổ 1317), Ủy ban Kinh tế APEC…đã tăng cường phối hợp trong quản lý và điều hành kinh tế vĩ mô cũng như thúc đẩy hợp tác quốc tế. Đồng thời, đã tổ chức nhiều Diễn đàn thường niên về cải cách và phát triển Việt Nam nhằm tăng cường trao đổi, đối thoại chính sách với tổ chức quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp.

Thứ mười một, công tác cán bộ được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định. Đã tiến hành ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và tuyển dụng công chức. Việc đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ, cử biệt phái cán bộ công tác thực tế tại địa phương… đã góp phần tích cực giúp nâng cao năng lực chuyên môn, thực tiễn và kỹ năng quản lý, lãnh đạo. Công tác thi đua khen thưởng được thực hiện thực chất, kịp thời động viên khích lệ tinh thần người lao động và không phô trương hình thức.


Phản hồi

Các tin khác